Lợi ích Thể_dục

A common elliptical training machineUS Marines exercising on the USS Bataan

Thể dục quan trọng cho việc duy trì thể trạng cơ thể và góp phần tích cực vào duy trì trọng lượng vừa vặn, xây dựng duy trì mật độ xương, sức mạnh các cơ, khớp, tính cơ động, đẩy mạnh sự khỏe mạnh sinh lý, giảm nguy hiểm phẫu thuật, và làm tăng sức mạnh hệ miễn dich.

Các bài tập còn giảm mức cortisol. Cortisol là một hóc môn gây căng thẳng tạo ra mỡ ở vùng bụng, làm khó giảm cân. Cortisol là nguyên nhân của rất nhiều vấn đề sức khỏe, cả thể chất và tinh thần.[8]

Những bài tập ưa khí công (aerobic) thường được đưa ra để giúp ngăn ngừa hoặc điều trị những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như cao huyết áp, béo phì, bệnh tim, tiểu đường típ 2, mất ngủ và suy nhược.[9].[10] Theo tổ chức y tế thế giới WHO việc thiếu luyện tập dẫn đến khoảng 17% của các bệnh về tim và tiểu đường, 12% sự suy sụp khi về già, và 10% ung thư vú, ruột kết.[11]

Có một vài bằng chứng cho rằng những bài tập hoạt bát (90–95% of VO2 Max) tốt hơn so với các bài tập điều hòa (40 to 70% of VO2 Max).[12]Một số nghiên cứu chỉ ra rằng những bài tập hoạt bát thực hiện bởi cá nhân có thể làm tăng endorphin, mộ loại thuốc giảm đau tự nhiên, làm tăng testosterone và hormone phát triển,[13] tác động đó không được đầy đủ như ở các bài tập điều hòa. Những nghiên cứu gần đây[14][15] chỉ ra rằng anandamide có thể đóng vai trò lớn hơn là nội sinh morphine trong "runner's high".

Cả bài tập ưa khí và yếm khí đều nâng cao hiệu quả cơ học của tim bằng các nâng cao thể tích tim (bài tập ưa khí công (aerobic)), hoặc độ dày thành tim (bài tập yêm khí (anaerobic)). Sự trương của tâm thất thường mang lại lợi ích nếu đó là do các bài tập mang lại.

Không phải tất cả mọi người đều có lợi ích như nhau từ các bài tập. Có một sự khác nhau lớn trong sự đáp ứng mỗi người với các bài tập. Hầu hết mọi người nhìn thấy bài tập điều hòa nâng cao sức dẻo dai từ các bài tập aerobic, một số sẽ nâng cao hai lần lượng oxy lấy vào, trong khi đó số khác có thể không bao giờ tăng thêm.[16][17] Similarly, only a minority of people will show significant muscle growth after prolonged weight training, while a larger fraction experience improvements in strength.[18] Sự khác nhau về gen trong việc cải thiện từ tập luyên là một trong những chìa khóa sinh học của sự khác nhau giữa những vận động viên ưu tú và hầu hết dân số còn lại.[19][20]. Các nghiên cứu cho rằng tập thể dục vào giữa tuổi trường thành tốt hơn về sau.[21]

Ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn

Ảnh hưởng có lợi của các bài lên hệ tuần hoàn được chứng minh bằng tài liệu sau:

Có một mối quan hệ trực tiếp giữa sự thiếu hoạt động và tử suất của hệ tuần hoàn, và sự thiếu vận động thể chất là một yếu tố nguy hiểm độc lập với việc phát triển của các bệnh động mạch vành. Có một sự liên quan đáp ứng liều lượng giữa lượng bài tập thực hiện từ khoảng 700 đến 2000 kcal năng lượng mỗi tuần và tất cả các nguyên nhân tử suất và bệnh của hệ tuần hoàn ở nhũng người trung tuổi và phần dân số già hơn. Khả năng lớn nhất cho việc giảm tử suất của những người ít vận động là trở thành một người năng động. Hầu hết các tác động có lợi của các hoạt động thể chất lên tử suất của các bệnh tim mạch có thể đạt được thông qua các hoạt động mạnh mẽ-điều hòa (40 đến 60 % oxy được tăng thêm phụ thuộc vào tuổi).Những người điều chỉnh thói quen của mình sau khi bị nhồi máu cơ tim điều chỉnh thói quen của mình sang những bài tập thông thường có thể cải thiện khả năng sống sót. Những người mà vẫ giữ thói quen ít vận động phải đối mặt với nguy cơ cao nhất của các bệnh về tim mạch.

Tác động lên hệ miễn dịch

Mặc dù có hàng trăm nghiên cứu về tập luyện và hệ miễn dịch, nhưng có một số ít bằng chứng về sự liên quan của tập luyện với bệnh tật. Các bằng chứng của khoa nghiên cứu bệnh dich gợi ý rằng, những bài tập điều hòa có tác dụng tốt lên hệ miễn dich con người, trong khi đó những bài tập nặng lại làm suy yếu nó. Ảnh hưởng này mà đã được minh họa trong đường cong J (J curve). Những bài tập điều hoà có liên quan tới giảm 29% tỉ lệ mắc phải nhiễm trùng của ống hô hấp trên (URTI), tuy nhiên các nghiên cứu trên các vận động viên ma-ra-tông chỉ ra rằng việc tập luyện cường độ cao kéo dài có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm trùng, mặc dù một nghiên cứu khác không tìm thấy tác động này. Chức năng của các tế bào miễn dịch bị tổn thương cấp tính bởi các bài tập kéo dài, cường độ cao, và một số nghiên cứu chỉ ra rằng các vận động viên có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn. Hệ miễn dịch của vận động viên và người thường nói chung giống nhau. Vận động viên có thể nâng cao số lượng tế bào tự nhiên và các hành động cytolitic, nhưng những thứ này không có nhiều ý nghĩa.

Bổ sung vitamin C trợ giúp mức URTI thấp trong những vận động viên ma-ra-tông.

Chỉ dấu sinh học của viêm như protein phản ứng C, cái mà hỗ trợ các bệnh mãn tính, được giảm trong những hành động riêng liên quan đến những người ít vận động, và tác động tích cực của các bài tập có thể là vì hiệu ứng chống lại nhiễm trùng. Sự suy nhược hệ miễn dịch theo sau những cơn bệnh của những bài tập có thể là một trong những cơ chế cho tác động chống nhiễm trùng.[22]

Ảnh hưởng lên chức năng của não

Một khảo sát năm 2008 của các liệu pháp làm phong phú dựa trên sự hiểu biết kết luận rằng các hoạt động thể chất, và các bài tập aerobic đặc biệt nâng cao chức năng nhận thức của người già.[23]

Trong loài chuột, các bài tập cải thiện chức năng nhận thức bằng cách cải sự độc lập thiện đồi hải mã, tiếp thu không gian, và nâng cao tính tạo hình của thời kỳ tiếp hợp và tế bào thần kinh[24] Ngoài ra hoạt động thể chất được cho nói là thứ bảo vệ tế thần kinh trong rất nhiều tác nhân có hại cho thần kinh và các bệnh thần kinh.[25] Ví dụ, nó giảm nguy cơ phát triển chứng mất trí.[26] Xa hơn, những bằng chứng giai thoại gợi ý rằng tập luyện đều đặn có thể bảo vệ sự hư hại của rượu bao gồm trong máu.[27]

Có một vài khả năng tại sao tập luyện lại có lợi cho não:

  • Làm tăng lượng máu và oxy chảy lên não
  • Làm tăng sự phát triển của các yếu tố giúp tạo tế bào thần kinh mới[28] và đẩy mạnh tính tạo hình của kỳ tiếp hợp [29]
  • Làm tăng chất hóa học trong não giúp cho khả năng nhận thức như dopamine, glutamate, morepinephrine và serotoninin[30]

Hoạt động thể chất có những ảnh hưởng có lợi khác liên quan tới khả năng nhận thức như làm tăng các yếu tố phát triển tế bào thần kinh, cái mà hỗ trợ sự tồn tại và phát triển của số tế bào thần kinh.[31]

Tác động lên chứng trầm cảm

Số lượng các yếu tố tạo nên chứng trầm cảm bao gồm thừa cân, giảm tự tin, căng thẳng và lo lắng.[32]Endorphin đóng vai trò như là chất giảm đau tự nhiên và chống suy nhược cơ thể.[33] Endorphin đã được quan tâm đến từ lâu như là nguyên nhân của cái được biết đến là "runner's high", con người có được trạng thái phấn khích từ việc nỗ lực thể lực mãnh liệt...[34] Tuy nhiên nghiên cứu gần đây [14][15] chỉ ra rằng anadamide có thể có khả năng đóng vai trò lớn hơn eddorphin trong "runner's high". Khi một người luyện tập, mức tuần hoàn của cả serotonin và endorphin đều tăng lên.[35] Được biết mức này giữ ở trạng thái cao như vậy trong vài ngày sau khi dừng tập luyện, có khả năng giúp cho việc cải thiện tâm trạng, nâng cao sự tự tin, và điều khiển trọng lượng.[34] Tập luyện một mình là một phương pháp bảo vệ tiềm tàng và là cách điều trị chứng trầm cảm nhẹ.[36] Các bài tập còn ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người buổi đêm. Khi cơ thể đã mệt, nó sẽ vào trạng thái REM (Rapid Eye Movement) dễ hơn và chu kỳ lâu hơn.[34][37]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thể_dục http://www.erin.utoronto.ca/~eparra/profile/PDF%20... http://library.crossfit.com/free/pdf/CFJ-trial.pdf http://www.everydayhealth.com/depression/specialis... http://www.ft.com/cms/s/2/e6ff90ea-9da2-11de-9f4a-... http://www.inspirational-quotes-and-quotations.com... http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=940... http://www.physsportsmed.com/issues/2001/05_01/uus... http://www.runnersworld.com/article/0,7120,s6-243-... http://www.sciencedaily.com/articles/p/physical_ex... http://medical-dictionary.thefreedictionary.com/ph...